Đối với người Đông phương chúng ta, nội công được coi như là một trong những công phu cao nhứt, và là căn bản của nhiều ngành võ thuật.

Có môn phái chỉ áp dụng vài kết quả của nội công trong kỹ thuật riêng của mình, để giúp môn sinh duy trì được khí lực sung mãn trong khi giao đấu. Riêng môn phái Thiếu lâm, thì nội công được đặc biệt quan tâm và chiếm một thành phần chính yếu trong chương trình luyện tập.

Về nguồn gốc và nguyên do phát sinh mật pháp này, chúng tôi xin miễn đề cập tới, vì chắc các bạn đã theo dõi loạt bài “Ta thấy gì qua hình bóng của Đạt Ma Sư Tổ?” của Thích Phước Điện đăng trong báo này từ số 4.

Ở đây, chúng ta cần tìm hiểu nguyên lý căn bản của nó để hiểu các phương pháp tập luyện và nhất là việc áp dụng kết quả thâu lượm được trong các trường hợp thực tế sau này.

Do kinh nghiệm, chúng ta được biết rằng sức mạnh cân đối và sức chịu đựng của mình sẽ tăng gia hay giảm sụt tùy theo lúc tinh thần mình hăng hái phấn khởi hay buồn rầu rũ rượi. Như vậy, có nghĩa là tinh thần đã phản ảnh rõ rệt đến những trạng thái của thể chất, và ý chí sẽ quyết định một phần lớn sức mạnh của con người trong khi chiến đấu.

Đồng thời, chúng ta cũng biết rằng các nguồn năng lực được tập trung đúng chỗ đúng lúc sẽ làm cho tầm hữu hiện tăng tới mức tối đa khi sử dụng.

Phương pháp nội công đã triển khai triệt để hai nguyên lý trên: Tính cách quyết định của tư tưởng trong hành động và mức hiệu dụng tối đa của việc tập trung khí lực.

Hành giả (người luyện tập) sẽ dùng tư tưởng để điều khiển, nhiếp phục tạng phủ của mình. Các luồng khí lực được khởi từ Đơn Điền châu lưu khắp cơ thể rồi lại tập trung về khởi điểm này. (Đơn Điền là trọng tâm thăng bằng của thân thể, điểm trọng yếu của các nhà luyện khí Đông phương)

Các tư thế nội công sẽ giúp cho đường vận hành khí lực được điều hòa và liên tục, hành giả nhờ đó mà tránh được những náo động bất thường, ức chế được cảm xúc của mình: giữ cho tinh thần bình tĩnh, khí sắc tự nhiên và sức lực luôn luôn sung mãn.

Và một khi đã quen vận dụng tư tưởng để điều khiển nội lực theo ý muốn, cũng như người kỵ mã khuất phục được con ngựa bất kham, hành giả có thể tập trung sức lực ngay tức khắc tại bất cứ điểm nào trên cơ thể để sẵn sàng ứng phó với các lực sung kích từ bên ngoài đưa tới. (Đó là trường hợp của những võ sư đã chịu cho các tảng đá dằn mạnh lên người, đánh mạnh thanh sắt vào dưới mạn sườn mà không chút hề hấn).

Các tư thế trong phương pháp tập luyện nội công có thể phân làm hai loại nhằm hai mục đích khác nhau :

– Những tư thế ngồi: Giúp cho hành giả tập trung tư tưởng, điều hòa các bộ máy hô hấp, tuần hoàn huyết quản, và giữ cho khí lực đừng phân tán.

– Những tư thế đứng: Có tính cách tích cực nhằm giúp cho hành tăng cường, phát huy nội lực.

Trong khuôn khổ bài này và những bài kế tiếp, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu cùng các bạn những tư thế luyện công chọn lọc.

Phần Thứ Nhất

VẬN HÀNH VÀ BẢO TOÀN KHÍ LỰC

Tư thế 1: Óc cố (Định thần)

Học nội công

Hành giả ngồi xếp bằng (bán già hay kiết già). Nhắm mắt lại, vứt bỏ các tạp niệm (đừng nghĩ tới bất cứ chuyện gì khác).

Trong khi ngồi, phải giữ xương sống cho ngay ngắn, không nên dựa vào đâu cả.

Óc cố là khép chặt mọi vọng động, dứt các phiền não và tập trung tinh thần vào một chủ định duy nhất là bảo tồn nội lực.

Tư thế 2: Khấu sỉ-Bảo côn luân (nghiến răng, áp đầu).

Học nội công

Nghiến răng cho phát ra tiếng trong 36 lần, mục đích là giữ cho thần khí của thân nhục không tán loạn.

Kế đến dùng 2 tay đan lại, đem ra phía sau ót, ép sát lòng bàn tay vào hai tai. Đồng thời hô hấp 9 lần cho thật nhẹ (nhớ đừng cho gây tiếng động nào).

Tư thế 3: Tả hữu minh thiên cổ (Gõ nhịp trống).

Học nội công

Sau khi hô hấp nhè nhẹ đủ 9 lần, nới hai bàn tay ra và dời về phía sau một ít. Đoạn lấy ngón trỏ đè lên ngón giữa, rồi ấn mạnh xuống từng hồi ngay chỗ trũng phía sau gáy (như gõ nhịp trống vậy). Làm như vậy mỗi tay 24 lần, tất cả là 48 lần. Xong, trở về tư thế Óc cố (1).

Tư thế 4: Vi bãi hám thiên trụ (xoay cổ nhè nhẹ)

Học nội công

Thiên trụ tức là xương phía sau cổ.

Cúi đầu xuống, rút cổ lại, xoay hướng về bên trái rồi bên phải, xoay luôn cả vai. Mỗi bên 12 lần.

Tư thế 5: Xích long giác thủy tấn (nuốt nước bọt)

Học nội công

Xích long tức là lưỡi. Dùng lưỡi rà lên vòm khẩu cái và hai bên má, khi nước miếng sinh ra đầy miệng thì uống ực làm 3 lần cho hết. Xong lại tiếp tục rà nữa, đủ 36 lần như vậy.

Trong khi nuốt hay tưởng tượng khí lực theo dịch tâ
n đi thẳng xuống đan điền. (Hình 5)

Tư thế 6: Bế khí, tha thủ (nín thở, chà tay)

Học nội công

Hít vào đầy phổi, nín thở lại: dùng hai tay chà xát mạnh với nhau cho nóng lên, rồi áp vào hai bên phía sau thận, đồng thời thở ra nhè nhẹ. Làm như thế 26 lần, xong trở về tư thế Óc cố. (Hình 6)

Tư thế 7: Tưởng hỏa thiêu tế luân (dùng tư tưởng dẫn hỏa vào đan điền).

Học nội công

Ngậm miệng và nín thở. Dùng trí tưởng tượng đem lửa (hỏa) từ đỉnh đầu và trái tim xuống đan điền, đồng thời cũng đem hơi thở xuống cho thoát ra tại điểm này. Hành công phu này cho tới khi có cảm giác nóng ở đan điền thì thôi. (hình 7)

Tư thế 8: Tả hữu lộc dư chuyển (xoay vai)

Học nội công

Co cánh tay lại trước mặt. Trước hết xoay tròn tay trái và vai trái (như quay một bánh xe vậy); sau đó tới tay và vai phải. Mỗi bên xoay 36 lần. (Hình 8).

Tư thế 9 : Cước như xoa thủ (duỗi chân với tay).

Học nội công

Duỗi hai chân thẳng tới trước, ngồi ngay ngắn, đan các ngón lại (để lòng bàn tay ngửa lên) rồi đặt lên đỉnh đầu. Kế đó, chuyển gân đưa thẳng hai tay lên như nâng một tảng đá nặng vậy, thân mình và hông cũng ra sức với hai tay. Sau đó từ từ hạ xuống đỉnh đầu… rồi lại tiếp tục như thế đủ 6 lần.

Học nội công

Tư thế 10: Đê đần phàn túc tần (Cúi đầu nắm gót)

Học nội công

Ngồi duỗi hai chân ra, cúi gập mình xuống và cố với hai tay nắm cho được hai bàn chân. Làm như thế 12 lần, xong, trở về tư thế Óc cố. (Hình 10)

Tư thế 11: Thôn thần thủy (Nuốt nước bọt)

Học nội công

Lại dùng lưỡi rà miệng để thần thủy tiết ra, nhai trong miệng 36 lần rồi nuốt mạnh vào bụng. Làm như thế 9 lần. (Hình 11)

Tư thế 12: Vận hỏa (Chuyển khí nóng khắp chầu thân)

Học nội công

Thường hành công phu này sau giờ tý (12 giờ khuya) và trước giờ ngọ (12 giờ trưa) một cách liên tục thì mọi bệnh tật sẽ được tiêu trừ.

Dùng trí tưởng tượng có một hơi nóng tại đan điền Chuyển gân bụng dưới (abdomen), nhíu hậu môn để vận khí từ dưới lên trên, đường phía sau theo chiều xương sống ; tới đỉnh đầu thì khí lực tạm dừng tại đó, kế đó lại bắt đầu đi xuống : qua thái dương, chớn thủy, xuống đan điền (tức là chiều vận hành ngược lại)

Tiếp tục vận hành khí lực theo hai chiều này cho tới khi thấy toàn thân phát nhiệt. (Hình 12)

Nguồn: http://www.aiki-viet.com.vn